
Hơn 3 thế kỷ sống cạnh nhau, người Việt vẫn dùng nhiều tên địa phương bằng tiếng Khmer do đồng bào Khmer đặt ra từ xưa. Nhiều tiếng bị đọc "trại" thành ra tiếng Việt, viết y như tiếng Việt nhưng dĩ nhiên là không có ý nghĩa gì cả nếu người đọc không biết tiếng Khmer. Ví dụ như Ksach (Cát) đọc thành Kẻ Sách, Cải Sách, Kế Sách; Salôn, Xà Lôn đọc thành Trà Tâm; Bassac đọc thành Ba Thắc; Srok Khl'eang đọc thành Sóc Trăng.....
Dưới triều Vua Minh Mạng, triều đình có ý đổi tên những dịa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer ở Nam Kỳ thành ra chữ cho cho có vẻ văn hoa hơn như Sóc Trăng gọi là Sông Trăng và chữ Nho là Nguyệt Giang. Xã Phnô hay là Phnor thì đổi lại là Phú Nổ.... nhưng đồng bào không dùng.

Khi người Pháp đô hộ thì lại dùng tên địa phương y như cũ nhưng lại âm trại ra một cách buồn cười. Ví dụ như cửa biển Trần Đề ngày ấy là Tran Di, Tran Đi, Tranh Đế... Cù Lao Dung lại viết là Cù Lao Giung, Cù Lao Huình Giun Châu...
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa ở Miền Nam, chính phủ lại đổi hẳn những tên ấy ra tiếng Việt, nhưng đối với người Việt gốc Khmer, họ vẫn dùng tên cũ như thuở trước. Trải qua những lần đổi thay và địa danh tiếng Khmer bị Việt hóa hầu hết nhưng người Việt gốc Khmer vẫn giữ tên địa phương theo tiếng nói của mình trong khi trò chuyện với nhau vì thế tên ấy vẫn tồn tại mãi.
Về ý nghĩa thì mỗi địa danh đều có 1 hoặc nhiều sự tích để lý giải cho tại sao lại có tên ấy. Nhưng cũng có địa danh mà hỏi đến là tại làm sao mà có thì cũng đành chịu. Trong bài viết này, tôi chỉ xin sưu tầm các địa danh đã được các học giả tiền bối sưu tập sẵn trong các tập sách của họ và đem vào bài viết này phục vụ cho người Sóc trăng và cả những ai quan tâm tìm hiểu về Sóc Trăng.
Dưới đây là một số địa danh do tôi góp nhặt lại từ nhiều nguồn khác nhau xin trình bày ra để chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Trước tiên tôi xin trình bày một số thuật ngữ liên quan trước khi vào nội dung chính để bài viết dễ hiểu hơn.
* Bưng: tiếng Pháp viết là "Beng" ( đây là một lối phiên âm giọng người Khmer trong tự điển tiếng Pháp).
Bưng: là đất sình lầy lấp xấp nước, cá tôm ở nhiều, cỏ lác mọc loạn xạ. Bưng là do tiếng Khmer là là "trapéang" đổi ra "péang", bâng, bưng nói dồn lại. ( Theo Vương Hồng Sển).
Bưng biền: do "bưng" ( tiếng Khmer) ráp với "biền" ( Chữ Hán) biên, bờ dọc mé sông.
- Beng: một danh từ tìm thấy trong quyển "Monographie de la province de KompongCham", có nghĩa là ao lấp xấp nước. Đây là một lối viết theo giọng người Khmer, mà cái ta gọi là "bưng":
Ví dụ: Beng Thom: bưng lớn, Beng Kok: bưng Cót, Beng Trop: bưng Tróp...
Nói tóm lại: beng, trapéang, prha-bang... chưa được thống nhứt về các viết, cách phiên âm nhưng hiểu đó là vũng sâu, sâu cấy lúa được, lội đi bắt cá tôm được không sợ chết đuối, vì nước tới bụng tới ngực là cùng. Bưng Trấp: đất bưng cỏ ( trấp là cỏ). ( Huỳnh Tịnh Của).
* Giồng: gò, cuộc đất cao do sóng đánh và gió thổi làm nên. Ở miền Nam có nhiều cát hợp thành đụn, thành giồng, rất ít nước nhưng khi đào được giếng thì nước rất tốt, trong và ngọt: đất giồng, ruộng giồng, giếng giồng. Ở Sóc Trăng có giồng Lình Kía (giồng Long Tử, tiếng Triều Châu lình là long, kía là tử, là con).
Ca dao có câu: "Trên đất giồng mình trồng khoai lang....."
* Sóc: ngày xưa "sóc" được viết là "sốc" tức là xứ sở, là thôn xóm của người Khmer ở.
* Vàm: tiếng này ngoài Bắc trước đây không có nên không có trong nhiều cuốn tự điển in ở Hà Nội. Vì dùng thường quá tưởng đâu đó là tiếng Việt, khảo ra mới biết nó vốn là tiếng Khmer, ta đã Viêth hóa từ hồi Nam Tiến. Péam là cửa biển, cửa sông. Người trước trong Nam dịch là "Vàm". Ông Nguyễn Tạo không thấy chữ "vàm" đã dịch "Péam" là "phiếm" Ông Chưởng thay vì Vàm Ông Chưởng. ( Vương Hồng Sển)
1. Ba Thắc: Tên một địa danh thuộc vùng Sóc Trăng cũ.
Ba Thắc: tiếng Khmer là Păm prek Bàsàk ( di cảo của Trương Vĩnh Ký trong le Cisbassac).
- Ba Thắc: tên gọi tiếng Khmer của một vị thần hay còn gọi là nặc tà, ông tà của người Khmer, có miếu thờ ở Bãi Xàu cũ. Đại danh Ba Thắc bên Campuchia cũng có. Tương truyền ông Ba Thắc là một vị hoàng tử người Lào đến sống vùng đất trên đường đi Tham Đôn, Mỹ Xuyên ngày nay. Khi ông chết người dân quanh vùng lập miếu thờ. Lúc đầu miếu được cất theo kiến trúc Khmer bằng cây nhưng về sau, năm 1927, ông Lê Văn Quạnh và một số thân hào trong vùng đã cất lại miếu theo kiến trúc Trung Hoa dạng "bán cổ - bán kim" và đề là " ba thắc Cổ miếu". Di tích này đến nay vẫn còn.
- Ba Thắc: trong sách Pháp có 3 nghĩa:
a. Vùng đất liền từ mé Hậu Giang, giáp vịnh Xiêm La ( Thái Lan) từ Châu Đốc xuống Bạc Liêu. Người Khmer gọi là Srok Bàsàk, người Pháp gọi là Transbassac; năm 1836 đặt làm phủ Ba Xuyên gồm 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Thời Pháp thuộc gọi là Sóc Trăng. ( Vương Hồng Sển).
b. Tên của chi nhánh Cửu Long Giang là Sông Hậu ( tên chữ là Hậu Giang - hậu là sau, giang là sông, Hậu Giang là sông ở phía sau, đối với Tiền Giang là sông trước). Sông Ba Thắc chảy từ biên giới Campuchia ra biển Đông qua các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng.
c. Tên một trong 3 cửa sông Hậu Giang gồm Định An ( mé Trà vinh), Ba Thắc và Trần Đề.
2. Ba Xuyên:
- Ba Xuyên là tên địa danh Sóc Trăng xưa.
- Ba Xuyên là tên chữ Nho của một con sông tiếng Khmer là " BàSàk", tên nôm là Ba Thắc.
3.Bãi Xàu
- Bãi Xàu là tên Nôm của huyện Phong Nhiêu thời đàng cựu ở Sóc Trăng ngày xưa, nay là thị trấn Mỹ Xuyên. Đây là một thị trấn buôn bán lúa gạo lớn vào bậc nhất thời Nam Kỳ Lục Tỉnh.
- Địa danh Bãi Xàu là do chữ " Bai chau" có nghĩa là " cơm sống" trong tiếng Khmer đọc trại ra. ( Xin xem thêm phần Truyền thuết địa danh Bãi Xàu).
4. Bố Thảo:
- Bố Thảo là tên Nôm của làng Thuận Hòa, tên chữ là "Phụ Đầu Giang" còn tiếng gốc Khmer là "păm ( péam) prêk Tumnup. Păm là vàm, prêk là sông, kinh, rạch. Còn Tumnup trong tự điển Pháp Khmer thì cũng viết là tămnup, tâmnop: barrage có nghĩa là chặn lại, rào chắn, đập chắn. Người Khmer địa phương đọc là "tà Nóp" vì không nói được đúng chữ, đúng giọng như sách viết. Người Triều Châu ở đó dịch ra là " Pâu Tháo" rồi biến lần ra là "Phụ Đầu". Trong sổ bộ ngày xưa viết là Bố Thảo, sau đổi thành làng Thuận Hòa.Theo cụ Vương Hồng Sển thì nơi vàm kinh này ngày xưa quả là có bị người Khmer chặn lai.
- Địa danh Bố Thảo người Triều Châu ( người Tiều) gọi là Pâu Tháo, nghĩa là đầu rạch ( "tháo" là đầu). Năm 1827, Chauvai Lim là quan Chân Lạp nổi loạn chống lại triều đình nhà Nguyễn. Lim đóng quân tại Bưng Tróp, sai đắp một cái đập để chận đường thủy của quan trên Châu Đốc xuống tiếp viên binh Nam. Đập ở ngay ngọn rạch nên người Triều Châu gọi là " Pâu Tháo", và nơi đóng quân gọi là "Xin Xụ" ( tức là Tân trụ).
5. Bưng Samo: thuộc làng Hòa Tú xưa, nay là xã Hòa Tú. Bưng Samo là đọc từ chữ Khmer là "Bưng Thmo" có nghĩa là ruộng có lộn đá. Bưng Samo là vùng ruộng điền của Bà Phủ An ( người giàu nhất Sóc Trăng thời Nam Kỳ Lục Tỉnh, có câu thiệu để nói về 4 người giàu nhất Sóc Trăng xưa như sau:" Nhất An, Nhì Phát, Tam Chánh, Tứ Định"). Bưng Samo trước đây có sản xuất một loại lúa ngon cơm nổi tiếng là lúa "samo".
6. Bưng Cóc: Tên một là Khmer, nay là Xã Phú Mỹ
7. Bưng Snor: nay là xã Viên An.
8. Bưng Tróp: Kompong Tróp.
9. Cần Giờ: "Phnor Cần Chơ" tức là "giồng cát chân đèn" ( phnor là giồng cát, cần chơ là chân đèn).
10. Mã Tộc: Ma Ha Tup.
11. Giồng Có: Kompong Ko ( chữ này chỉ dịch lấy âm chứ không lấy nghĩa, nếu dịch ra là Vũng Bò hay Vũng Gù).
12. Sóc Vồ: Srok Pou ( srok là sóc, Pou là cây Lâm Vồ, cây Bồ Đề)
13. Phú Nổ: phnor, phnaur là mồ mả, đất nổi cao.
- Theo ông Đào Văn Hội là do chữ Phorokar ( giồng cây rokar) mà ra.
- Ông Vương Hồng Sển lại cho chữ Phú Nổ là từ chữ "Pho-phkar" ( giồng hoa) mà ra. Tiếng Khmer "phkar" là hoa.
- Theo một người bạn tôi ở Phú Tâm thì bảo "Phú Nổ" là "Phật Nổi" vì ở Phú Tâm có chùa "Phật Nổi" nhưng tiếng Khmer "phật nổi" nói như thế nào và âm vị có liên quan hay không tôi chưa có dịp xác đinh.
14. Giồng Văn Trạch: Kompong Trach ( giồng này ở đâu tôi chưa biết).
15. Giồng Trường Kế :phnor sângke ( sầu ke). Trường Kế là ký âm tiếng Hoa từ tiếng Khmer.
Sângke là tên một loại cây lấy lá vấn thuốc hút.
16. Long Phú: Bang long ( giếng nước).
17. Tát Giồng: Prassat Kong ( tháp nhà Phật).
18. THam Đôn:Kompong Đôn (dịch lấy âm chứ không lấy nghĩa là "vũng dừa").
19. Nhu Gia:Sampou Thleai ( xin xem thêm phần truyền thuyết về địa danh Nhu Gia).
20. Tài Sum Xoài Cả Nả là tên xưa của xã Đại Tâm, tỉnh Sóc Trăng. Khi trước tên gọi này rất được trọng dụng, ngày sau ít dùng và ít ai biết. Nguyên gốc chữ "Xoài Cả Nả hay Xoài Ca Nả là do mượn từ tiếng Khmer là "Xoài Chrum", ta việt hóa thành "Tài Sum", người Hoa lai Việt lại gọi là "Xoài Cả Nả" lấy ý rằng lúc xưa làng ấy là một rừng xoài, người nào đến đó, khi trở về nhà đều mang về cả một giỏ xách - "cả Nả" xoài ( Nả - một loại giỏ xách bằng tre có nắp đậy của người Hoa thường dùng. Ngày nay ta vẫn còn thấy người Hoa dùng giỏ này dựng đồ đi cúng chùa, cúng Thanh Minh, KhoaNam). Phong tục cổ thời, người đi đường đều mang theo cái Nả đương bằng Tre để dựng thập vật từ áo quần, trầu thuốc, đến thức ăn..... Từ danh từ "Xoài Chrum" rồi phiên âm lại thành "Tài Sum" sau lại sáp nhập với làng "Trà Tâm" kế cận nên biến nên xã Đại Tâm , vì chữ "Tài" sau đổi lại thành chữ "Đại" và "Trà Tâm" sót lại chữ "Tâm".
Làng Trà Tâm là do tiếng Khmer là "Xà Tim" có lúc được dịch là "Trà Tim" mà có.
21. An Tập: Kompong top ( Vũng Tọp??? Địa danh này ở đâu???)
22. Chung Đôn: Kompong Đôn ( cũng là có nghĩa là vũng dừa và được dịch lấy âm, nhưng đây là một địa danh trên phường 8, Sóc Trăng ngày nay, khác với Tham Đôn bên Mỹ Xuyên).
23. Văn Trật: kompong Trach. Nơi đây có chùa Khmer có tượng phật cổ " 4 mặt" cùng thời với Đế Thiên - Đế Thích bên Campuchia. Theo mô tả như thế thì nay có lẽ là chùa Bốn Mặt , xã Phú Tân.
24. Lịc Trà: Prêk Trâkuon ( tâkon, tra coun) còn được gọi là Trà Cuôn có nghĩa là rạch rau muống.
25. Tuân Tức: Pong Tuk có nghĩa là trứng nước ( bọt nước, người Khmer gọi bọt nước là trứng nước).
26. Bưng Xa Mau: beng smau ( bưng cỏ).
27. Cù Lao Dung:, ngày xưa còn được gọi là Cù Lao Giung, Cù lao Giun, Cù lao Cọp ( vì có nhiều cọp), Cù Lao Hổ Châu ( tên chữ nho của Cù Lao Cọp), Cù Lao Huình Dung Châu tiếng Khmer là "kòh Tum". ( Kòh Tum là chim Bồ Nông còn gọi là chim "Thằng Bè, chim Chàng Bè" nên người Khmer gọi đây là Cù Lao Thằng Bè).
28. Chắc Tưng: Chak To Tưng có nghĩa là "lá dừa đâm ngang", sau đổi thành Chắc Tưng, rồi Chác Văn sau nhập với một làng khác thành Tài Văn.
29. Vũng Thơm: Kompong Thom ( dịch lấy âm không lấy nghĩa). Kompong Thom có nghĩa là " Vũng Lớn" ở Campuchia cũng có Kompong Thom.
30. Chắc Đốt: tên một làng ở Sóc Trăng xưa, nay là Gia Hòa. Ở đây có một con sông cũng gọi là sông Chắc Đốt do tiếng Khmer là "mo chap, mo đott" nghĩa là một tay bắt cá (mo chap) một tay xỏ cá vô dây " lạt cà bắp" ( mo đott), đủ hiểu cá ở sông này nhiều không biết cơ man nào mà kể, bắt không kịp xỏ vào dây. (Vương Hồng Sển).
- Lạt cà bắp: là thứ dây dùng đọt non dừa nước chẻ và phơi se se, thứ lạt này vừa dẻo dẻo dai, vừa cứng cáp, khi bắt con cá còn dãy tê tê, xỏ mang cá xáh về khỏi cần giỏ đựng. tuy xét ra lối sanh cầm con cá như vậy, ắt đau đớn cho nó lắm, nhưng ông bà ta lớp xưa nào biết luật nhơn quyền và hội bảo vệ thú vật. ( Vương Hồng Sển).
- Làng Chắc Đốt ( chánh danh trong bộ là làng Gia Hòa thuộc tỉnh Sóc Trăng ( năm 1946), tục danh là làng "Lá Banh". Người Khmer gọi là làng "Chắc Đốt", giáp ranh với tỉnh Bạc Liêu. Như đã nói ở trên, địa danh Chắc Đốt có nguồn gốc từ tiếng Khmer có nghĩa là tay bắt cá, tay xỏ cá tươi vào dây "lạt cà bắp". Theo ông Vương Hồng Sển thì làng Chắc Đốt nằm trên một con sông thiên nhiên gần rừng Sác, nước mặn và gần biển, cá tôm nhiều vô kể đến nỗi ông bà xưa kể lại:
"Bất kể người nào, dầu tay ngang, chịu khó lội xuống khúc sông, đem dây lạt cà bắp theo thì cứ một tay bắt cá (mott chap) một tay xỏ xâu ( mott đott)."
Chính mắt tôi ( Vương Hồng Sển) trông thấy trong những ngày tản cư vùng này, tháng 2 dương lịch 1946, cá tôm kẹo lềnh đặc sông không ai thèm vớt, còn thức ăn rẻ đến không tưởng tượng: nghĩ coi một con vịt "đít sà", một con gà mái đẻ không hơn một đồng hai ( 1$20) một đồng rưỡi bạc (1$50). Một sớm tôi ra chợ "Chồm Hổm" , đưa sáu hào (0$60) ôm về một trăm hột vịt tươi, mừng thầm sẽ muối tro đem theo ghe ăn trót tháng, không dè khi hè hụi mang xuống thuyền, những bạn dồng hành đều cười tôi hớ hẫng vì lúc ấy, nhơn tâm "xao xiến", vịt bầy đẻ ngoài ruộng, trứng không ai thèm lượm, muốn ăn ra đó mặc sức hốt, tội tình gì ra chợ mua "của hôi" tốn tiền. ( Năm 1988, một hột vịt tươi giá 200 - 250 đồng, năm nay leo thang, tôi chưa rõ bao nhiêu, chừng nào 100 hột = 0$60 trở lại? ( 1-2-1989) ).
Còn nói về cá tôm sông này, thì chính tôi (VHS) trong thấy rõ ràng, nhiều vô số kể. Một bữa trưa tôi ngồi trong khoang thuyền, bỏ mắt trông ra bốn phương, vì thân đi tản cư, ngày giờ nào biết làm gì hơn ngồi rỗi dòm trời dòm đất. Bữa trưa ấy, tôi ngó ra sông thấy bãi cạn, có bầy trẻ đang trững giỡn, đứa tắm, đứa lội, đứa lặn hụp, đứa ngồi bắt cá. Chúng nó bắt cá dễ ợt! Ban đầu chúng lấy tay khoét một lỗ sâu trẹt trẹt tựa như lòng chảo. Đoạn chúng bẻ nhánh Dừa Nước che tàn cho rợp bóng trên lỗ trũng ấy. Rồi chúng lấy tay vạch một đường khá sâu cho lổ thông ra nước sông. Chúng đem theo một cái giỏ tre để đựng cá lại với một rổ con để xúc cá. Đó rồi nửa chơi nửa thật, chúng nắm một nắm cám khô vãi vào vào lòng lạch cái lổ trũntrũng. Thoạt nghe một tiếng "ồ", nước tung trắng xóa, tôi thấy cá nhỏ, cá con từ đâu không biết chen vô, nhào vô đầy nhóc cái lổ trũng, chỉ còn chịu khó lấy rổ xúc ra cho vào giỏ. Rồi sửa sửa cái lỗ cái lỗ cho êm cho kín đáo như cũ, đoạn vãi cám và xúc nữa. Thật dễ dàng, quá sức hiểu biết của tôi. Lục tỉnh cá tôm dư dả, quả là thiên đàng của dân Nam! ( từ sau 1947, dân tản cư vô dây dùng lựu đạn cho nổ trên sông, tôm cá không còn nhiều như trước đây, thật là phí phạm lộc trời (1-2-1989) )
- Làng Chắc Đốt này đến cuối năm 1946, bị nạn hỏa thiêu vô cùng ghê rợn, người Việt và người Khmer do bị ngoại kiều mũi cao đốc lói nên thù khích nhau dữ dội, sanh ra dịch đốt nhà lẫn nhau, đốt qua đốt lại thế nào mà đến rốt không còn một nóc gia đứng vững. ( VHS)
31. Cái Quanh: Giếng Nước.
32. Văn Cơ: tên một làng Khmer trên đường đi Đại Ngãi, sau dịch là Trường Kế và cũng gọi là Văn Cơ, người Hoa gọi là Sầu Ke.
Tham Đôn: Kompong Đôn ( Vũng Dừa). (địa danh này ở Mỹ Xuyên).
34. Cổ Cò: kòh Co ( tiếng Khmer Kòh có nghĩa là con Cò).
35. Sóc Trăng: Srok Khl'eang có nghĩa là "xứ kho bạc".
Trên đây là một số địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer mà ra do tôi góp nhặt được từ nhiều nguồn, nhiều nhà khảo cứu, nhà sử học như Vương Hồng Sển, Trương Vĩnh Ký, Trịnh Hoài Đức, Lê Hương... Dĩ nhiên là Sóc Trăng vẫn còn nhiều địa danh Khmer khác mà tôi chưa hiểu nghĩa như Tổng Cán, Dù Tho, Tam Sóc, Trà Canh, Ba Rinh... nếu hiểu ra chắc là thú vị lắm. Nếu ai biết thêm xin chỉ dạy thêm dùm. Rất cảm ơn!
Melbourne 23/06/2004
Khoa Nam, SocTrangOnline
Xin xem thảo luận ở đây.
Tài Liệu Tham Khảo Chính
- Trương Vĩnh Ký (1997). Petit Cours De Géographie De La Basse-Cochinchine. Nhà Xuất Bản Trẻ. Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú giải.
- Vương Hồng Sển (1993) Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam. Nhà Xuất Bản Văn Hóa.
Các Tài Liệu Khác
- Lê Hương (1969). Người Việt Gốc Miên. Hồng Anh thư Xã Australia phát hành lại.
- Trịnh Hoài Đức (1998). Gia Định Thành Thông Chí. Nhà Xuất Bản Giáo Dục. Đỗ Mộng Khương & Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch. Đào Duy Anh hiệu đính.
- Vương Hồng Sển (1994). Thú Chơi Sách. Nhà Xuất Bản Mỹ Thuật.
- Vương Hồng Sển (1996) Hơn Nữa Đời Hư. Nhà Xuất bản Văn Hóa.
- Vương Hồng Sển ( 1998) Phong Lưu Cũ Mới. Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét