Phạm Thường Gia (Kiên Giang)
Sinh ngày : 6.12.1951 tại Long Xuyên
Hiện ở tại Rạch Giá, Kiên Giang
Hội viên hội nhà văn Việt Nam
Chẳng phải xa lạ, ông thầy đó chính là chú họ của tôi. Còn chỗ ở, nhà ông chỉ cách nhà ba má tôi chừng 1 tiếng ho. Đã là chỗ họ hàng, lại sống cạnh ông từ nhỏ, thế mà tôi chẳng hiểu ông học bùa ngãi ở đâu, giỏi đến nỗi thiên hạ tôn ông là thầy. Một cũng thầy Năm, hai cũng thầy Năm. Còn Mọi chỉ là biệt danh để người ta phân biệt với thầy Bảy Chà, thầy Hai Ngỗng nghiết gì đó. Hơn nữa, khi chữa bệnh ông thường niệm chú bằng một thứ âm thanh mà có lẽ đến ông cũng chẳng biết nên bà con gọi phứa là tiếng Mọi. Chung quanh cái biệt danh của ông chỉ có vậy. Còn chuyện ông hành nghề thì có vẻ bí ẩn hơn. Hồi trước năm 1975, cả xóm biết ông bị bắt quân dịch khi đã bốn chục tuổi ngoài và bị đưa nghe đâu ở tận xứ Kon Tom gì đó, xa lơ xa lắc. Vợ ở nhà tần tảo nuôi gần một chục chiếc tàu há mồm của ông để lại muốn đứt hơi, đường sá lại chẳng thông…Thôi thì, thím tôi chỉ còn mỗi một khả năng là cầu Trời khấn Phật cho thân chú được lành lặng trước làn tên mũi đạn. Hóa ra lại thiêng hết chỗ nói! Bẵng đi nửa năm, cả xóm trố mắt nhìn chú lù lù trở về, đầu bịt khăn đỏ, tay trái khư khư ôm cái hộp bằng gỗ đen mun. Giờ, căn nhà nhỏ của ông vốn chật hẹp lại càng chật hơn bởi có thêm nào là bàn thờ lớn, bàn thờ nhỏ, lớp dưới, lớp trên. Gần như hễ vớ được bất cứ cái vật gì, từ cái bình vôi miệng túm đến cục đá…ông đều cẩn trọng đặt lên bàn thờ, đêm đêm khói nhang hun đến không còn một con muỗi.
Nhưng để được thiên hạ khúm núm gọi bằng thầy thì quả là chẳng dễ chút nào. Thường thím tôi chỉ tốn tiền rượu ngày hai cử cho ông, nay phải gánh thêm phần nhang đèn. Vậy mà hết tháng này đến tháng nọ, hết mùa nước đến mùa khô, ông cũng chẳng được thân chủ nào ngó ngàng đến. Cũng xin nói thêm, từ ngày trở về, ông không hề mở miệng đả động đến chuyện lính tráng của mình. Nếu ai tò mò muốn biết thì ông gạt ngang và liền xoay câu chuyện quanh việc “tầm sư học đạo”. Ông luôn có những câu chuyện bùa ngãi đầy bí ẩn nhưng lại không kém linh nghiệm. Nhất là khi vô vài ba xị, khuôn mặt rỗ hoa của ông xanh ra, chừng đó ông khoe tài mình chẳng kém mấy tay bán thuốc dạo. Lũ nhóc chúng tôi, mồm há, mỗi khi nghe chuyện của ông đều tự động ngồi sát vào nhau cho đỡ sợ. và ông cũng trở thành thần tượng đầy quyền lực, có thể so sánh với những nhân vật trong truyện Phong thần hay Tây du ký. Đầu trên, xóm dưới…đâu đâu người ta cũng biết danh ông mà chẳng cần một dòng quảng cáo trên mặt báo. Đã vậy mà chưa ai được dịp xem thầy trổ tài, nghĩ cũng lạ, tại sao không làm bùa phép để khiến thân nhân những người bệnh đến mời ? Đôi khi thấy vợ tỏ vẻ buồn phiền, ông liền cao giọng an ủi :
- Rồi có ngày tôi sẽ làm cho bà sáng mắt ra ! Học là học vậy, còn điều được binh, khiển được tướng thì cần có thời gian tu luyện. Chớ bà tưởng dễ à?
- Hứ! Ông tu rượu thì có !
“Choang!”
Ổng thẳng chân hất mâm cơm trên ván xuống đất. Vợ và lũ con ông mặt cắt không còn tí máu, len lén rời khỏi chỗ đi ra sau nhà. Chưa hả cơn giận, ông cầm ly rượu uống cái trót, cạn đến tận đáy. Rồi vừa cắn vừa nhai rau ráu trong miệng cho đến lúc chỉ còn trơ cái đít ly trên tay, ông lại xổ một tràng tiếng Mọi và phun miểng trắng cả nền nhà. Ông đòi trừng phạt “con nữ” vì cái tội dám xúc xiểm đến người cõi trên. Hoảng, thím quỳ xuống lạy ông lia lịa, miệng không ngớt nói những lời tạ tội rât thành kính.
Vậy là, mới ra quân lần đầu, lại ngay trong nhà mình mà ông đã đạt được kết quả đến không ngờ! Nhưng công bằng mà nói, tiếng vang ấy tuy cả xóm đều biết nhưng có phần hạn chế. Chuyện này miễn bàn. Chỉ biết, đã có người trong xóm nửa tin nửa ngờ đến mời ông trị bệnh cho con em mình. Người ta thử thầy cũng có. Ông không từ chối một ai, dù ngày hay đêm hôm khuya khoắt chẳng quản công. Đang đêm, hễ nghe tiếng kêu “thầy Năm ơi” là ông bật dậy ngay và tỉnh táo như chưa hề biết ngủ. Trước khi ra khỏi nhà, ông không quên lên đèn, thắp nhang rồi hỏi cặn kẽ căn bệnh đang chờ. Chưa hết, ông còn rề rà giơ tay chụp một nắm khói và ngồi lim dim để hỏi và chờ ý kiến chỉ đạo của ông tướng Mọi nào đó. Ai cúng tổ bao nhiêu thì ông nhận bấy nhiêu, không mặc cả mà cũng chẳng kỳ kèo, dẫu có nhiều ca ông phải bỏ sức lực ra không ít. Chẳng hạn như nhai ly, chén, lưỡi lam hoặc dùng “dao con chó” cắt bắp tay, rọc lưỡi để lấy máu trị cho người bệnh. Rồi tốn nào son, giấy vàng để làm bùa… Nhưng thôi, những thứ này chẳng đáng giá, có tính thì cũng không bì được bữa rượu mà chủ nhà hậu tạ. Điều đáng nói là những con bệnh trong xóm, nếu được ông nhận chữa đều qua khỏi, không nhanh thì chậm chớ chẳng ai ra nghĩa địa mà nằm. Dần dà thím tôi ra đường với bộ mặt hớn hở hơn, nhứt là mỗi bận được người ta mang rượu thịt đến nhà cúng tổ, đền ơn…Nhưng phải đến lúc cứu người chết sống lại danh ông mới thực sự đăng quang.
Một buổi chạng vạng, ông đang ngồi trong nhà uống rượu suông, bỗng nghe có tiếng lao nhao ngoài lộ. Lắng tay nghe kỹ ông mới biết trong ngọn có người vừa bị rắn cắn. vẫn không ra khỏi nhà, ông thong thả uống cho kỳ hết chỗ rượu còn lại, thong thả lấy cái khăn đỏ bịt khất ngang trán và thong thả moi trong cái chậu sành một củ gì đó. Phủi sơ sơ đất bám quanh, ông cho nó vào miệng nhai, vừa nhai vừa băng đồng chạy tắt vô trong ngọn. Lúc ông đến nơi thì tiếng khóc đã dậy nhà, thân nhân đang lắt nút áo người xấu số; tốp thì xẻ gỗ đóng hòm…Ông xổ một tràng tiếng Mọi trước nhà rồi vẹt đám đông sang bên lấy đường đi thẳng vào trong. Nạn nhân là một cô gái trẻ, mặt tím tái, quai hàm đã cứng. Ông vội ra hiệu cho người ta mang đếnchiếc đũa bếp, cạy miệng cô gái ra rồi nhổ cái thứ nước ông ngậm vào miệng cô gái.
Chẳng ai tin ở phép lạ của ông nhưng trong tình cảnh này, thôi thì cứ mặc! Chẳng ngờ, cái điều ít ai mong đợi lại xảy ra. Từ cổ cô gái phát ra tiếng “ọt” yếu ớt. Ông lại tiếp tục xoa bóp phần ngực và chỉ vài phút sau nạn nhân thở nhẹ. Làm thêm vài động tác nữa, cô gái từ từ mở mắt, ngơ ngác nhìn quanh. Thần kỳ hết chỗ nói! Hỏi ai dám nghi ngờ tài nghệ của ông?
Sau việc làm ấy, nhà ông thường không là không đủ chỗ cho khách ngồi. Thân chủ đến tìm ông không hẳn là chỉ mời trị bệnh. Người ta còn cần ở ông một đạo bùa để chồng bỏ vợ bé trở về, cần ông xem coi mất của có tìm lại được không…Dường như thế sự có bao nỗi lo buồn thì ông cũng có ngần ấy công việc. mà việc nào, phàm ông đã nhận giúp là y như thành công. Xin vắt tắt kể một chuyện khác.
Có lần, ông tiếp một người khách ở xa đến. Bà ta ở miệt Trà Vinh thì phải, gia đình cũng thuộc vào hạng có ăn có để. Bà vừa bị mất một số vàng nên đến nhờ thầy xem…nếu lấy lại được của, bà hứa sẽ đền ơn ông một phần ba. Chà, quả là một mối hời nhưng nuốt chưa chắc đã trôi mà nhả ra thì uổng quá. Sau này ông kể lại chuyện ấy với ba tôi và nói thêm : Thôi thì nhận đại. nếu như thất bại thì mình cũng chẳng mất gì. Tôi cũng chẳng màng gì cái tiếng tăm ở cái xứ xa lơ xa lắc ấy. Thế là ông hạch hỏi bà suốt cả buổi. Nào là vàng bà cất ở đâu, nhà cửa thế nào và khi phát hiện mất, trong nhà có bao nhiêu người, ai thân, ai lạ v..v…Nhang cháy xập xòe, khói thơm ngào ngạt. Lại đưa tay bốc một nắm không khí rồi áp vào tai. Lim dim trò chuyện với tướng Mọi hồi lâu, ông bừng mở mắt ra và phán bằng tiếng Mọi lẫn tiếng Việt. Rằng, bà sẽ không mất của. Số vàng kia là do người trong nhà của bà lấy nhưng chưa kịp xài. Ông còn quả quyết nói thêm: ”Nếu tôi nói sai thì bà cứ trở lại đây mà dẹp bàn thờ tổ này đi!”. Khổ chủ mặt mày nở ra rạng rỡ, vội vội vàng vàng xin cáo từ. Tất nhiên khi ra về bà cũng không quên đặt thêm lên bàn thờ tổ một món tiền hậu hĩnh và còn thành kính lạy xì xụp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét