Âm nhạc là một nghệ thuật. Âm nhạc có thể diễn tả tâm trạng cho mỗi người. Có thể buồn da diết, buồn chia ly, vui bên nhau, hạnh phúc dài lâu...Dù cho chiến tranh tàn phá thì âm nhạc vẫn chảy trong lòng người mộ điệu, từ những anh sinh viên đến những cô học sinh nhỏ nhắn, từ những người bình dân cho đến những người trí thức và cả những anh lính đang ở ngoài chiến tuyến.
Tất nhiên tùy trình độ và khả năng cảm thụ mà mỗi người lựa chọn cho mình một dòng nhạc yêu thích. Và trong chiến tranh thì nó còn phụ thuộc vào hòan cảnh. Một người lính đầy lòng nhiệt huyết sẽ nghe những ca khúc tuyên truyền, nhưng tình yêu cho người em gái hậu phương vẫn sáng nên anh sẽ hát những ca khúc trữ tình cho nỗi nhớ không nguôi. Những người con gái hậu phương sẽ hát cho các anh lính những ca khúc cổ vũ cho tinh thần nhưng lòng vẫn lo lắng cho người nơi chiến tuyến.
Khi chiến tranh Việt Nam bùng nổ, nhiều nhạc sĩ miền Bắc đã di cư vào trong miền Nam trong một đợt di tản lớn. Cái mà họ muốn là có thể viết những xúc cảm trong chiến tranh và tình yêu một cách tự do và không bị gò bó trong một khuôn khổ nào như ở ngoài Bắc sau 1954. Vào năm 1954, một nhạc sĩ miền Bắc khi đó 28 tuổi đã viết ca khúc "Nỗi lòng người đi" như một tâm sự khi phải xa quê mà lánh nạn. Đó là nhạc sĩ Anh Bằng, người chuyên phổ nhạc cho thơ. Ca khúc "Nỗi lòng người đi" thật nhẹ nhàng, đầy ý thơ:
"Tôi xa Hà Nội năm lên 18 khi vừa biết yêu,
Bao nhiêu mộng đẹp yêu thương thành khói tan theo mây chiều...
Tôi xa Hà Nội năm em 16 trăng tròn đắm say..."
Kể từ đây, âm nhạc Việt Nam có sự biến chuyển mạnh mẽ. Phía ngoài Bắc, nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa chủ trương cho các nhạc sĩ tinh thần yêu nước "xã hội chủ nghĩa", các ca khúc của họ chủ yếu là để tuyên truyền, nhịp điệu hùng hồn và uy nghi. Còn trong Nam, phía Việt Nam Cộng Hòa chủ trương cho nhạc sĩ tự sáng tạo ca khúc và có quyền viết ca khúc phản chiến, chống đối, tự do trong việc sáng tác. Tuy nhiên, điều này và việc tuyên truyền ý thức hệ cho người dân trong Nam không hay bằng Cộng Sản miền Bắc nên các ca khúc tuyên truyền (VNCH gọi là cục Tâm Lý Chiến) thiếu phần hào hùng như các ca khúc của Cộng Sản Bắc Kỳ. Nhưng thay vào đó, nhạc trữ tình và một số dòng nhạc khác vẫn chiếm được cảm tình của giới mộ điệu qua bao thế hệ. Có những ca khúc hầu như ai cũng biết như "Bày ngày đợi mong", "Lan và Điệp", "Bài Thánh ca buồn", "Không"...
Điểm qua dòng nhạc trữ tình, dễ dàng nhận thấy các cây viết của miền Bắc đã không còn sức sống như trước năm 54. Đa số các nhạc sĩ của họ được đào tạo từ các nước XHCN như khối Đông Âu và Xô Viết nên tư tưởng cũng không thoải mái. Thêm vào đó, nhiều nhạc sĩ và nghệ sĩ đã ra đi vào miền Nam nên các tác phẩm trữ tình ngoài Bắc giai đọan này rất hiếm. Những nhạc sĩ tiền chiến trước kia ở lại miền Bắc hoặc không sáng tác, hoặc không phổ bíên các ca khúc của họ. Hơn nữa, các tác phẩm này không được phép lưu hành dưới chế độ ở miền Bắc. Thậm chí với cả Văn Cao, người sáng tác ca khúc "Tiến Quân Ca" được chọn là Quốc ca cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì các sáng tác của ông cũng không được phép lưu hành, thơ của ông không được in.
Ngược lại, dòng nhạc trữ tình vẫn phát triển mạnh mẽ trong VNCH. Các nhạc sĩ không bị cấm đoán trong sáng tác, tự do trong câu chữ. Các nhạc sĩ nổi tiếng ngoài Bắc vào Nam như Văn Phụng (Tôi đi giữa hoàng hôn, Tiếng Dương Cầm, Bức Họa Đồng Quê), Hoàng Trọng (mệnh danh là ông vua Tango), Phạm Duy, Lê Thương, Phạm Đình Chương...Ngoài ra còn có sự trưởng thành từ các nhạc sĩ chính gốc miền Nam như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng...
Các ca khúc trữ tình tại miền Nam trong thời gian này góp phần phong phú cho tân nhạc Việt Nam vào thời kì Cận Đại. Khi chiến tranh và đau thương vẫn giày xéo trên đất nước Việt Nam thì những tiếng nhạc êm đềm vẫn thánh hót qua từng năm tháng. Cho dù chiến tranh đã kết thúc, cho dù đã qua mấy chục năm, vết bụi thời gian vẫn không che được những nốt nhạc trữ tình ấy.
Và tiếp theo là dòng nhạc với tiết tấu chậm, giai điệu nhẹ nhàng và đơn giản gọi là Nhạc Vàng. Những tên tuổi như Trần Thiện Thanh, Chế Linh, Lam Phương, Trúc Phương, Anh Bằng, Duy Khánh với những sáng tác cho tình yêu đôi lứa, cho những chàng trai chinh chiến, cho những người tử nạn vì chiến tranh và cho những em gái hậu phương. Có thể nói Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ của lính, các ca khúc của ông thường viết về lính như "Anh không chết đâu anh", "Người ở lại Charlie", "Tuyết Trắng" cho các em gái hậu phương ngày đêm mong chờ tin từ chiến trường khốc liệt như "Người yêu của lính", "Tình Thư Của Lính:
"...Hỡi người trai lính em yêu ơi
Hỡi người anh chốn xa xôi
Áo xanh pha màu lá
Có khi em ngỡ rằng mình quen nhau từ kiếp trước
Đến bây giờ mơ ước thành duyên tơ để má em thêm hồng..."
(Người Yêu Của Lính)
Trần Thiện Thanh viết rất nhiều nhạc về lính, ông sáng tác cho rất nhiều những người bạn cũng như những chiến sĩ tranh đấu cho quê hương đã bỏ mạng nơi chiến trường. Tuy không hào hùng như những ca khúc cổ động chiến tranh như những sáng tác của những nhạc sĩ miền Bắc Việt Nam, nhưng những ca khúc về lính của Trần Thiện Thanh cũng như giọng hát mượt mà và mỗi khi hát ông mặc áo lính đều còn lưu lại trong trái tim những người miền Nam kể cả sau 1975. Mặc dù phần lớn các ca khúc này không được phép lưu hành với lí do "không phù hợp với đường lối của Đảng", nhạc của Trần Thiện Thanh dù bị cấm hay không vẫn đã nằm sâu trong tâm trí của rất nhiều người Việt Nam.
Ngòai ra, Trần Thiện Thanh còn là tác giả của những ca khúc rất nổi tiếng cho tình yêu đôi lứa, cho tình yêu dành cho đất nước Việt. "Chiếc áo bà ba" hầu như không ai mà không biết, nhưng ít ai biết đó là của Trần Thiện Thanh. Những ca khúc như "Bảy ngày đợi mong", "Tình có như không", "Lâu đài tình ái" của Trần Thiện Thanh đã trở nên quen thuộc dù đã trải qua bao năm tháng. Ông được mệnh danh là ông hòang Bolero.
Các tác giả dòng nhạc Bolero (nhạc Vàng) với giai điệu nhẹ nhàng, chầm chậm trong giai đoạn này đa phần sáng tác những ca khúc cho lính xa nhà, cũng như tình yêu trong lửa đạn. Có Trúc Phương, Anh Bằng, Châu Kỳ, Duy Khánh.. với các nhạc phẩm: "Nửa đêm ngoài phố", "Xuân này con không về", "Nếu vắng anh", "Xin anh giữ trọn tình quê"...với những tiếng hát Thanh Tuyền, Chế Linh, Nhật Trường, Thanh Lan...
Trong thập niên 60 tại Sài Gòn, nơi âm nhạc phát triển mạnh mẽ nhất, phong trào Du Ca xuất hiện. Phong trào Du Ca do 2 nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Đinh Gia Lập khởi xướng. Dòng Du Ca có khá nhiều nghệ sĩ tên tuổi với những sáng tác trẻ trung. Những ca khúc này có tinh thần cổ võ cho thanh niên, sáng tác cho thiếu niên, sinh họat, và cả tình yêu. Những tên tuổi lớn: Trầm Tử Thiêng, Lê Uyên Phương, Nguyễn Đức Quang....Dòng Du Ca là một hơi thở mới cho đời sống văn nghệ của thanh niên, đòan thể (không phải Đòan như ngoài Bắc), trong trường học. Sau 1975, phong trào Du Ca không còn nữa, và những gì liên quan đến Du Ca cũng ít khi được nhắc đến trong các bài báo về âm nhạc ngày nay tại Việt Nam. (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét