Thứ Hai, 9 tháng 3, 2009

VUA GIA LONG ÐÃ CHẠY VỀ TRÀ-VINH ?

Ðọc những sử sách về nhà Nguyễn như “Ðại Nam Thực Lục Chính Biên”, “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”, “Hoàng Việt Long Hưng Chí” là những cuốn sử đáng lý ra phải viết thật đầy đũ về sự nghiệp vĩ đại của Thế Tổ Cao Hoàng Ðế Gia Long. Nhưng không biết vì lẽ gì mà nhiều sự kiện lịch sử hết sức lý thú trong giai đoạn “tẫu quốc” của Ngài lại không được ghi chép lại, như sự kiện Nguyễn Ánh chạy về Trà Vinh năm 1782. Nhưng khi đọc tiểu sử của Tả Quân Lê Văn Duyệt và nhứt là tiểu sử của Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa thì rõ ràng Nguyễn Ánh đã chạy về Trà Vinh và đã làm việc gì ở đó?

Người viết không phải là sử gia, chỉ là người đọc sử và ghi chép lại một câu chuyện lịch sử mà người viết đinh ninh là có thật, người viết cóp nhặt lại những chi tiết lấy trong hai cuốn tiểu sử nói trên (Lê Văn Duyệt của Hoàng Lại Giang nxb Văn Hóa Thông Tin và Bùi Hữu Nghĩa của Hoài Nam nxb Văn Nghệ)

Nhắc lại giai đoạn nhà Nguyễn Tây Sơn: Lần thứ nhứt là năm 1778, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem thuỷ quân vào lấy Gia Ðịnh và đuổi bắt giết chết Thái Thượng Vương và Tân Chánh Vương tức là cha và chú của Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh chạy thoát, tức nhiên là hoàng tử duy nhứt còn lại của dòng họ nhà Nguyễn. Lúc bây giờ ông chỉ 16 tuổi đầu. Nhờ có những bầy tôi trung kiên bên nhà vợ là Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Tống Phước Hiệp…và nhứt là tướng quốc người Nam như Ðỗ Thành Nhơn, Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Hoằng…tập họp tàn quân và xây dựng quân lực từ Long Xuyên, Sa Ðéc tôn Nguyễn Ánh làm Ðại Nguyên Soái, Nhiếp Quốc Chính, lúc bấy giờ ông được 17 tuổi. Họ kéo quân về Sài Gòn, đánh chiếm lại Gia Ðịnh. Qua năm sau Nguyễn Ánh xưng vương (1780).

Hai năm sau tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo 150 chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh nhau với thuỷ quân Chúa Nguyễn với gần 200 chiến thuyền có cả tàu sắt do Ðề Ðốc Tống Phước Hiệp (chú vợ nhà vua) chỉ huy. Quân Chúa Nguyễn thua to vì dùng hỏa công ngược gió. Trong trận này chúa Nguyễn mất một thủy sư người Pháp tên là Manuel, lúc đó đang chỉ huy một chiến thuyền sắt và phải đốt thuyền để tự sát. Tàn quân của Nguyễn Ánh lên bộ tìm đường tẩu thoát trước ba quân của anh em Tây Sơn đuổi theo sát…

“Một lần nữa Ánh lại đại bại. Lê Văn Duyệt đã cứu được Ánh bằng cách đánh tập hậu và nghi binh mặt tiền cầm chưn đối phương. Nguyễn Ánh chạy tới Cần Giuộc thì dừng lại. Kêu Lê Văn Duyệt tới, Ánh hỏi:

- Bây giờ tiến thoái đằng nào lợi?
Duyệt đáp không cần suy nghĩ:
- Ðằng nào cũng chết!
Nguyễn Ánh bối rối than:
- Lẽ nào Trời nở hại ta?
- Trời vẫn còn thương Chúa Công. Lê Văn Duyệt nhìn Nguyễn Ánh giọng điềm tĩnh.
Nguyễn Ánh mừng rỡ:
- Vậy nên làm gì bây giờ?
Duyệt bàn:
- Trá ngụy. Việc binh là vậy. Làm như tấn mà lui. Lấy lợi mà dụ. Gây rối mà đuổi. Không dại trương sức với kẻ mạnh
……….

Nguyễn Ánh sốt ruột:
- Giờ đã qúa nửa đêm, giờ Sữu. Ngươi tính ta nên làm cách nào?
Duyệt nói ngay:
- Ðốt 4 đống lửa. Mỗi đống lửa cho 5 thằng gõ trống khua chiêng. Làm như ta đang tấn công. Còn ta thì lặng lẽ theo con ngòi rút về vùng Láng Thé. Vùng này sát Chơn Lạp, rừng cây um tùm, đường xá chưa có. Dân ở đây thật thà tốt bụng.
- Chưa có đường, ghe thuyền lại không có!-Mượn thuyền dân mà đi. Ai không cho mượn thì đưa tiền cho dân đóng cái khác. Còn binh thì đi theo vết mòn dân đi, vạch rừng lội bưng mà đi.
- Chừng nào lên đường được?
- Canh hai.

Nguyễn Ánh lệnh Nguyễn Văn Thành tới sai làm theo kế Duyệt. Chẵng bao lâu sau Nguyễn Ánh đã tới được vùng Trà Vang (Trà Vinh). Tàn quân còn lại khoãng 60 tên. Dân ở đây hầu hết là người Việt gốc Chân Lạp…

Trong một tiệc rượu dân đãi. Nguyễn Ánh hứa sau này lấy lại được đất nước, lên ngôi hoàng đế, Ánh sẽ tha thuế dài hạn cho dân vùng Láng Thé để trả cái ơn cưu mang Ánh hôm nay.
Từ đấy Lê Văn Duyệt cùng 12 lính hầu đi bộ theo Nguyễn Ánh từ Ðông Vân tới Thi Giang…và sau cùng tới đảo Thổ Chu.

Tiểu sử của Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa đã xác nhận sự kiện trên đây 70 năm sau, tức là vào khoãng năm 1845-55, đời vua Tự Ðức (1847-1883), lúc Thủ Khoa Nghĩa làm Tri Huyện Trà Vang. Rất tiếc là người viết không làm sao tìm cho ra những năm tháng đích xác của những sự kiện kể ra sau, ngoài ra chỉ biết chắc chắn là Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa sanh ra ở Bình Thủy, Cần Thơ, đi lên Biên Hòa để học ở Gia Ðịnh và đổ thủ khoa kỳ thi Hương (cữ nhân) năm Ất Mùi (1835), tuần phủ Thuận Khánh Hoàng Quốc Ðiều làm chánh khảo, tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ làm phó. Bùi Hữu Nghĩa dự bị thi Hội (tiến sĩ) thì ngã bịnh gần như nan y. Ông bịnh bao lâu? Không đâu nói. Có thể là 3 năm. Kế đó triều đình, vua nào? Minh Mạng (1819-1841) hay Thiệu Trị (1841-1847) hay Tự Ðức (1847-1883)? Vì là thủ khoa nên đặc cách bổ nhiệm Nghĩa làm tri huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, Biên Hòa. Cùng ngày khao tri huyện, ông làm lễ thành hôn với cô Nguyễn Thị Tồn, con gái một của ông Nguyễn Văn Lý, nhà ông Nghĩa ở trọ để đi học từ 4, 5 năm trước. Chắc chắn là đời vua Thiệu Trị vì lúc đó Nguyễn Công Trứ còn làm tuần phủ An Giang và có đi dự tiệc cưới với câu chúc “Song Hỉ Lâm Môn”. Nhưng năm nào? Không đâu nói!

Làm tri huyện Phước Chánh bao lâu? Cũng không rõ. Nghĩa được thuyên chuyễn về tri huyện Trà Vang, phủ Lạc Hóa, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Lúc bấy giờ tổng đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển và Bố Chánh là ông Truyện. Như vậy là qua đời vua Tự Ðức rồi (1847) vì ông Uyển là bố vợ vua Tự Ðức. Và câu chuyện sau đây đích thực xảy ra đời vua Tự Ðức, có thể đầu đời vua Tự Ðức vì câu chuyện lại có liên quan đến Phan Thanh Giản, đúng lúc Phan Thanh Giản làm Thượng Thư Bộ Hình (1847), Bộ NộI Vụ (1848) và làm Kinh Diên Giảng Quan (1849) ở triều đình Huế.

(Theo Ðào Thái Thanh viết trong tạp chí Les Amis du vieux Hué, tập 2, 1915 thì cha mẹ Phan Thanh Giản là người Minh Hương, chạy nhà Thanh qua định cư tại Bình Ðịnh. Qua năm 1788 chạy về Trà Vinh để tránh Tây Sơn và Phan Thanh Giản sinh ra ở đó năm 1796. Lại một vĩ nhân của tỉnh nhà)

Câu chuyện sau đây xác nhận sự kiện nói trên. Lúc thủ khoa Nghĩa làm tri huyện Trà Vang thì xảy ra cuộc đụng độ giữa người Việt gốc Chân Lạp và người Hoa Kiều chung quanh thủy lợi của con sông Láng Thé. Vốn từ nhiều thập niên qua, người Chân Lạp đã vinh nơi lời hứa của Nguyễn Ánh, nay là Hoàng Ðế Gia Long, họ khai thác tôm cá trên sông Láng Thé một cách yên lành. Bổng dưng một hôm nọ một toán người Hoa Kiều kéo nhau đến đổ lờ, đổ lọp, đổ lưới thu lượm tất cả tôm cá của người Chân Lạp và họ khởi sự khai thác sông Láng Thé một cách đương nhiên. Người Chân Lạp kéo đến dinh tri huyện trình bày nội vụ và xin quan huyện xét xử. Tri huyện Trà Vinh Bùi Hữu Nghĩa phán xét như sau: “Rạch Láng Thé được vua cho các người không lấy thuế, các người cứ giữ lấy. Nay có ai lớn hơn vua đứng ra bán rạch ấy thì các người phải cam chịu. Còn nếu ai nhỏ hơn vua, đứng ra bán rạch ấy, thì dầu có chém nó đứt đầu cũng không sao cả!”

Thế là qua ngày hôm sau, chủ thầu Hoa Kiều là Hia Tỷ, cầm đầu một nhóm người Hoa ra sông Láng Thé và khởi sự thu lượm cá tôm của người Chân Lạp như mấy hôm trước và đưa ra một tờ giấy có triện đỏ của quan đầu tỉnh cho phép khai thác sông Láng Thé. Bên người Chân Lạp có hương mục Châu Xem cầm đầu, chận đường người Hoa Kiều và giành tôm cá lại. NgườI Hoa Kiều giỏi võ đã đánh qụy mấy người Chân Lạp nhưng Châu Xem đã huy động được một số người khá đông và với cuốc xuỗng họ đánh lại và hạ sát bảy tám người Hoa Kiều.
Hia Tỷ bõ chạy. Ngày hôm sau có mặt tại Vĩnh Long báo cáo cho Bố Chánh Truyện đầu đuôi tự sự. Thế là Tổng Ðốc Uyển và Bố Chánh Truyện, cả hai vì tham nhũng và tư thù, đã vội vàng bắt giam và đưa ra tòa, kết tội Bùi Hữu Nghĩa chủ mưu gây loạn trong dân gian, gây nhiều án mạng đáng tội tử hình. Họ đã trình về Huế xin y án. Ðang khi ông Nghĩa chờ đợi ra pháp trường thì vợ ông là bà Tồn đem vòng vàng đi bán, gom góp tiền bạc thuê tàu buồm cấp tốc chạy ra Huế để kêu oan cho chồng. May nhờ lúc đó có Phan Thanh Giản làm Thượng Thư Bộ Lại hay Bộ Nội Vụ đã chỉ đường đi nước bước cho bà kêu oan và được vua Tự Ðức tự tay nhận đơn. Sau khi thĩnh ý mẹ là bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, vua đã ra lịnh Bộ Hình phải xét lại bản án và đổi lại tội trạng. Nhà vua chuẫn phê đổi ra tội, đày đi trấn thủ tiền đồn Châu Ðốc. Khi Bộ Hình nghị án, cũng như theo lời khuyến cáo của bà Từ Dũ thì phải trở lại lời hứa của vua Gia Long với người Chân Lạp ở theo sông Láng Thé. Như thế tức là xác nhận sự kiện Nguyễn Ánh chạy về Trà Vinh hơn 70 năm về trước.

Mấy ngày sau đó, bà Tồn còn được bà Từ Dũ tiếp và ban co một tấm biễn “Liệt Nữ Khã Gia”. Vua Tự Ðức lại ban cho bà võng điều có 4 lộng, có cờ trống đưa bà về tận Biên Hòa. Tuy nhiên trên đầu võng có treo một gong nhỏ sơn son tượng trưng cho tội làm kinh động triều đình ( gióng trống kêu oan đánh thức vua Tự Ðức lúc 2 giờ sáng, buộc vua phải mặc triều phục ra nhận đơn của bà).
Về đến Biên Hòa, bao nhiêu lễ lạc tiếp đón linh đình. Nhưng chẳng được mấy tháng thì bà lâm bịnh mà mất chưa kịp hội ngộ với chồng được một ngày vì đang lúc đó Thủ Khoa Nghĩa phải đi dẹp loạn thổ dân ở vùng biên cương để thi hành bản án “quán tiền hiệu lực, đoái công thực tội”.
Âu cũng là một câu chuyện buồn! Quá buồn!

(Bổ túc: Nguyễn Ánh chạy về Trà Vang, nhưng đúng ra là ở đâu? Theo sự suy luận của người viết thì có thể thuyền của Nguyễn Ánh từ Bến Tre đã vào Vàm Láng Thé và đổ bộ lên hữu ngạn sông Láng Thé lối Ba Si, Ba Se vì chỉ vùng đó mới có dân cư đông đúc, có tỗ chức, ăn thông luôn đến Ao Bà Om vì chính Ao Bà Om mới là trung tâm dân cư và văn hóa của người Chân Lạp lúc bấy giờ (1780-82). Ngoài ra lúc xãy ra vụ tranh chấp xô xát giữa người Chân Lạp và người Hoa Kiều thì bên tã ngạn đã có làng Ðại Phước do ông Huỳnh Văn Viễn, ông sơ người viết đã thành lập từ năm 1820-21 rồi, mà không bao giờ trong gia đình hay người trong làng có nhắc đến sự kiện Nguyễn Ánh chạy về Trà Vang cũng như chuyện xô xát nói trên. Vì thật ra bên tã ngạn sông Láng Thé trước 1820 thì hoàn toàn còn hoang dã, chưa có bóng người dù là người Chân Lạp cũng không có.
Huỳnh văn Lang
Nguồn : aihutravinh.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét